1. Trẻ em, những nguy cơ đặc biệt từ lao
Ảnh hưởng chủ yếu đến phổi nhưng cũng có thể ảnh hưởng tới các bộ phận khác của cơ thể. Trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ thường chịu những tác động nặng nề do mắc các bệnh như viêm màng não lao (gây mù, điếc, liệt hay tâm thần), mắc lao đa kháng thuốc (đòi hòi điều trị kéo dài, tốn kém với các tác dụng phụ do thuốc rất nặng) và cũng rất dễ tử vong.
Ít nhất một nửa triệu trẻ sơ sinh và trẻ em bị bệnh lao mỗi năm và khoảng 70.000 trẻ tử vong vì căn bệnh này. Trẻ dưới 3 tuổi và những người bị suy dinh dưỡng hay suy giảm hệ miễn dịch là những đối tượng dễ mắc lao nhất.
Thuốc chủng ngừa duy nhất hiện đang có sẵn cho bệnh lao là vi khuẩn Bacillus Calmette-Guérin (BCG), trong đó cung cấp bảo vệ hạn chế chống lại các hình thức nghiêm trọng của bệnh lao, chẳng hạn như viêm màng não lao, ở trẻ nhỏ.
Tuy nhiên, BCG chỉ tạo sự bảo vệ đến khi trẻ 15 tuổi và không an toàn khi sử dụng ở trẻ em sống chung với HIV
Do đó, trẻ em đặc biệt là trẻ dưới 5 tuổi hay cơ địa suy giảm miễn dịch (suy dinh dưỡng, nhiễm HIV…) cần được tầm soát và điểu trị dự phòng bệnh Lao khi có tiếp xúc với người bệnh Lao. Việc dự phòng lao có thể giảm 70-80% khả năng bị bệnh lao cho trẻ.
2. Đối tượng trẻ được sàng lọc trước khi điều trị dự phòng Lao
Trẻ từ 0-14 tuổi (đặc biệt là trẻ dưới 5 tuổi) tiếp xúc trực tiếp với nguồn lây, tức là trẻ sống chung với cha mẹ, ông bà, người thân bị lao, ho khạc ra đàm có vi khuẩn lao (xét nghiệm đàm soi trực tiếp dương tính: AFB ) trong vòng 3 tháng gần đây.
Tất cả trẻ 0 đến 12 tháng tuổi nhiễm HIV (hoặc có mẹ bị HIV) bị phơi nhiễm lao do tiếp xúc với thành viên trong gia đình mắc bệnh lao .
Tất cả trẻ trên 12 tháng tuổi nhiễm HIV, kể cả trẻ đã từng được điều trị lao
3.Các bước sàng lọc trước khi tiến hành điều trị dư phòng Lao:
Việc sàng lọc phải được thực hiện bởi bác sĩ tại các cơ sở y tế
Bước 1: Tìm kiếm các dấu hiệu nghi mắc lao
Ho hoặc thở khò khè?
Sốt?
Sụt cân?
Đổ mồ hôi trộm về đêm?
Hạch?
Nếu không tìm thấy dấu hiệu nào, chuyển sang Bước 3 (bỏ qua bước 2)
Nếu có ít nhất một trong các dấu hiệu nêu trên, chuyển sang Bước 2
Bước 2: Đánh giá triệu chứng
Nếu trẻ có các triệu chứng nghi ngờ Lao ở bước 1 sẽ được các bác sĩ thăm khám, theo dõi và làm thêm một số xét nghiệm để tìm nguyên nhân, chẩn đoán và cân nhắc điều trị bệnh Lao.
Nếu các triệu chứng trên đã được bác sĩ loại trừ không phải là bệnh Lao, trẻ sẽ được tiếp tục chuyển sang bước 3
Bước 3: Rà soát ba chống chỉ định điều trị dự phòng Lao bằng Isoniazid dưới đây:
Phản ứng với isoniazid (đã từng bị sốt, phát ban hoặc viêm gan do điều trị bằng isoniazid)?
Viêm gan cấp tính hoặc mạn tính (vàng da, tăng men gan..)
Bệnh thần kinh ngoại vi (cảm giác kim châm, tê bì, yếu hoặc có cảm giác đau bỏng rát ở các chi)?
Nếu không có chống chỉ định nào trong 3 trường hợp nêu trên, bắt đầu điều trị dự phòng Lao
4.Điều trị dư phòng Lao ở trẻ em:
Trẻ em đă được sàng lọc và loại trừ bệnh Lao sẽ được điều trị dự phòng Lao liên tục trong vòng 6 tháng bằng thuốc kháng Lao Isoniazid uống mỗi ngày với liều lượng theo cân nặng.
Trẻ có thể được bổ sung thêm Vitamin B6 để giảm tác dụng phụ của thuốc Isoniazid
5. Theo dõi và tuân thủ điều trị dự phòng Lao bằng Isoniazid:
Trẻ điều trị dự phòng Lao phải uống thuốc và tái khám theo hẹn mỗi tháng trong vòng 6 tháng
Nếu quên cho bé uống thuốc thì phải báo ngay cho bác sĩ đang theo dõi.
Theo dõi tác dụng phụ của thuốc trong suốt quá trình điều trị, tái khám ngay khi bé có các triệu chứng sau:
Nôn, buồn nôn, đau bụng, vàng da, mệt mỏi không rõ nguyên nhân
Co giật, khó khăn trong diễn đạt, khó tập trung
Tái khám ngay khi trẻ có các triệu chứng nghi ngờ lao như nêu trên (sốt, ho, sụt cân…) trong suốt quá trình điều trị dự phòng lao.
KẾT LUẬN
Khi trẻ có tiếp xúc với người bệnh lao, hãy đưa trẻ đến khám và kiểm tra ngay tại các cơ sở y tế có chuyên khoa Lao. Nếu trẻ mặc bệnh Lao sẽ được điều trị theo Chương trình chống Lao quốc gia kịp thời. Nếu trẻ chưa bị bệnh Lao và nằm trong nhóm đối tượng cần dự phòng Lao, trẻ sẽ được theo dõi và điều trị dư phòng bằng Isoniazid tại cơ sở y tế có chương trình dự phòng Lao.
Theo BS: Nguyễn Ngô Vi Vi- Nguyên BS khoa nhi Bệnh Viện Phạm Ngọc Thạch